Tiếp tục cải tiến phương thức lãnh đạo cấp ủy đảng đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

ĐẢNG BỘ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẢNG ỦY HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

*

                  

 

      ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

 

Tiếp tục cải tiến phương thức lãnh đạo cấp ủy đảng đáp ứng

 yêu cầu kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình

của dân tộc Việt Nam

 

Nguyễn Thị Thu Hằng,

Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo,

Bí thư Đảng ủy Học viện Quản lý giáo dục

 

1. Đặt vấn đề

Đảng ta xác định, từ Đại hội XIV trở đi, đất nước ta sẽ chính thức bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Giai đoạn mới, đòi hỏi đổi mới về nhận thức, đổi mới về hành động của toàn Đảng, của cấp ủy các cấp, của toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng, sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước. Đặc biệt, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải phát huy cao nhất tinh thần, ý chí, sức mạnh của nhân dân - Chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới.

Kỷ nguyên mới là khoảng thời gian đất nước, dân tộc phải vươn lên mạnh mẽ, phấn đấu thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược, tạo sự phát triển vượt bậc ở một tầm cao mới, trình độ mới, chất lượng mới, xác lập vị thế quốc gia trên trường quốc tế, tạo nền tảng cho bước phát triển đột phá kế tiếp. Kỷ nguyên tiếp nối kỷ nguyên tạo thành lịch sử phát triển liên tục, từ thấp đến cao, ngày càng hoàn thiện của một quốc gia, dân tộc.

Quan điểm về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng để đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc của Tổng Bí thư Tô Lâm một lần nữa khẳng định công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhu cầu tự thân của một đảng mácxít chân chính. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khơi dậy sức mạnh toàn dân tộc để làm nên những thắng lợi to lớn. Trong giai đoạn đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, quan điểm về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng đã khẳng định và nâng tầm uy tín, bản lĩnh của Đảng cầm quyền trong điều kiện mới. Cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng là quan điểm có tính kế thừa, phát triển quan điểm của các kỳ Đại hội Đảng trong thời gian gần đây, đồng thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong tình hình mới. Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII khẳng định: “phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”(1).

Quan điểm cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng của Tổng Bí thư cho thấy những trăn trở của người đứng đầu Đảng ta trước vấn đề luôn gắn liền với sự tồn vong của Đảng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đó là yêu cầu nâng cao năng lực của một Đảng cầm quyền trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là một vấn đề hệ trọng trong công tác xây dựng Đảng để thông qua đó, tiếp tục nhắc nhở mỗi người, nhất là mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

2. Nền tảng nhận thức của việc cải tiến phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng

Việc tiến hành cải tiến phương thức lãnh đạo cấp ủy Đảng xuất phát từ những nền tảng nhận thức căn bản sau:

Một là, xuất phát từ “tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế”(2).

Đối với một đảng cầm quyền, việc ban hành văn bản, nghị quyết là phương thức biểu đạt ý chí của chủ thể cầm quyền để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “trước hết là cần phải tránh cái lối viết “rau muống” nghĩa là lằng nhằng “trường giang đại hải”, làm cho người xem như là “chắt chắt vào rừng xanh”” (3). Để cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng mà trước hết là nâng cao chất lượng ban hành văn bản, nghị quyết, cần tăng cường hơn nữa sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, nâng cao nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của chất lượng ban hành văn bản, nghị quyết. Cần đặc biệt chú trọng nhiệm vụ xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát hệ thống hoá văn bản, nghị quyết một cách thường xuyên nhằm kịp thời loại bỏ những văn bản, nghị quyết trùng lắp, chồng chéo, không còn phù hợp với tình hình thực tiễn từng địa phương, đơn vị.

Hai là,  thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng để bảo đảm cơ chế vận hành thông suốt, bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị. Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng là cơ sở vững chắc để Nhà nước thiết lập các công cụ quản lý xã hội một cách tối ưu nhất. Chủ trương, định hướng của Đảng là mục tiêu và sứ mệnh của một Đảng cầm quyền, xuất phát từ nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của đại đa số Nhân dân. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng một cách kịp thời và hiệu quả sẽ góp phần xây dựng môi trường chính trị - xã hội bảo đảm ổn định; bảo đảm cho mọi công dân và tổ chức hoàn thành tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mình đối với xã hội, đối với đất nước. Do đó, Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng(6). Đảng ta tăng cường lãnh đạo để thể chế hóa đường lối, chủ trương bảo đảm quyền tự do của Nhân dân trong việc giám sát các nguồn lực xã hội, phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Ba là, xuất phát từ “mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh”(7).

Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra của công cuộc đổi mới đất nước, chưa đáp ứng kịp những biến đổi nhanh chóng và toàn diện mà chúng ta đạt được trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, tổ chức bộ máy bên trong của các cơ quan trong hệ thống chính trị chưa khắc phục triệt để tránh trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, còn chậm điều chỉnh theo hướng tinh gọn nhất. Mô hình tổ chức của chính quyền địa phương theo cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền đã bước đầu được hình thành nhưng quá trình triển khai thực hiện chưa mang tính đồng bộ và triệt để. Các đơn vị sự nghiệp công lập đã tiến hành việc sắp xếp, tổ chức lại nhưng còn chậm, hiệu quả chưa cao, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa được đẩy mạnh quyết liệt.

Bốn là,  xuất phát từ “mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng”(9).

Trải qua 80 năm cầm quyền, mặc dù Đảng đã tổ chức và lãnh đạo thành công đưa đến những thắng lợi to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta nhưng khái niệm về Đảng cầm quyền cũng như nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng dường như vẫn chưa được đặt ra nghiên cứu một cách bài bản, đúng mức cả trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Cơ chế vận hành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ở nước ta còn có biểu hiện chưa “đúng vai”, nên có tình trạng làm thay hay “lấn sân” của người quản lý dẫn đến buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng; hoặc cũng có tình trạng người lãnh đạo có biểu hiện chuyên quyền, làm hết việc của người quản lý.

Năm là, xuất phát từ “cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp vẫn nhiều”(10).

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lãnh đạo đúng là quyết định mọi vấn đề cho đúng, tổ chức thi hành cho đúng, tổ chức kiểm soát cho đúng”; “muốn lãnh đạo đúng, người lãnh đạo phải có mối liên hệ chặt chẽ với các tầng lớp dân chúng”. Vấn đề này đặt ra yêu cầu đối với các cấp ủy Đảng phải thường xuyên đổi mới phương pháp, tác phong lãnh đạo để nâng cao năng lực nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn. Thực tế cho thấy, việc cụ thể hóa các quy định của cấp trên vào điều kiện cụ thể của từng đảng bộ, chi bộ còn chậm hoặc đôi khi mang tính văn bản hình thức để đối phó khi kiểm tra, giám sát. Ở một số lĩnh vực, quy trình, thủ tục ban hành văn bản chưa kịp thời, thiếu đồng bộ thống nhất. Vẫn còn tình trạng một số quy định, thủ tục chưa xác định rõ về nội dung, yêu cầu trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo; bên cạnh đó, công tác quản lý, khai thác hồ sơ đảng viên chưa được quan tâm đúng mức nên việc cập nhật, bổ sung thông tin chưa được tiến hành thường xuyên. Hạn chế chung của nhiều cơ quan, đơn vị là có nhiều cuộc họp, có những cuộc họp nội dung trùng lặp không những ảnh hưởng đến thời gian giải quyết công việc hay đi thực tế cơ sở mà còn ảnh hưởng đến hình ảnh và phong cách của người lãnh đạo.

3. Tiếp tục cải tiếp phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đáp ứng yêu cẩu của kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Một là, tiếp tục đổi mới nhận thức và thực hiện nghiêm về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Đại hội VII của Đảng thông qua Cương lĩnh năm 1991 đã xác định phương thức lãnh đạo của Đảng. Các Đại hội VIII đến Đại hội XIII tiếp tục, bổ sung, phát triển nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng. Đại hội XI của Đảng thông qua Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Phương thức cầm quyền là gì chưa được xác định rõ. Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới, cũng chưa làm rõ nội dung của phương thức cầm quyền. Mới đây, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: Đảng cầm quyền bằng pháp luật, lãnh đạo định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên của Đảng chấp hành, “thượng tôn” pháp luật. Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước; quyền lực của Đảng cầm quyền là quyền lực về chính trị, đề ra chủ trương, đường lối, còn quyền lực nhà nước là quyền lực quản lý xã hội trên cơ sở pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng để bảo đảm quyền lực thật sự thuộc về nhân dân, Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm về mọi thành công, thiếu sót trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao chủ trương, đường lối của Đảng

- Đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản của Đảng theo hướng đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tính dự báo cao, bám sát thực tiễn. Cần xác định rõ Đảng ban hành những văn bản gì và khi nào ban hành văn bản mới. Chẳng hạn, Đảng ban hành nghị quyết về định hướng phát triển kinh tế-xã hội hay ban hành kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Đối với những văn bản quan trọng, tác động sâu rộng, trước khi ban hành cần lấy ý kiến của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị-xã hội, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên.

- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm đạt hiệu quả cao với các biện pháp chủ yếu như: Khắc phục bệnh hình thức trong học tập, quán triệt nghị quyết. Không nên quá dựa vào hình thức trực tuyến, mà kết hợp hài hòa giữa trực tiếp và trực tuyến. Tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu, học tập quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng một cách thật nghiêm túc, chất lượng, hiệu quả. Xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương. Tập trung nghiên cứu, thể chế thành luật và các văn bản dưới luật. Xây dựng các quy định, quy chế của Đảng; tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức thực hiện. Đổi mới cách thức thông tin, báo cáo kết quả thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng của địa phương, đơn vị.

- Các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên lãnh đạo, định hướng, cho chủ trương đối với những vấn đề lớn, mới, phức tạp, nhạy cảm trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng hoặc cho chủ trương thí điểm một số nội dung cần thiết.

- Nâng cao chất lượng tham mưu văn bản của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng, nhất là trong tham mưu chiến lược, hoạch định chủ trương, đường lối; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng.

- Tập trung lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện tốt các nội dung sau:

Coi trọng xây dựng hệ văn bản, quy định đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trọng tâm; chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong xây dựng pháp luật. Phát huy dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học.

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức, cá nhân trong bộ máy, đẩy mạnh cải cách hành chính, đi đôi với nâng cao năng lực thực thi và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.

Nâng cao chất lượng công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.

Lãnh đạo các tổ chức chính trị-xã hội đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thực hiện tốt vai trò đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên.

Ba là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động

- Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân bảo đảm thiết thực, phù hợp với từng đối tượng. Chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý, phản biện của các tổ chức chính trị-xã hội và cán bộ, đảng viên, viên chức, người lao động trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn.

- Chú trọng định hướng chính trị, tư tưởng; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

- Thực hiện tốt quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về dân chủ ở cơ sở và Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là công tác dân vận của các cơ quan nhà nước với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức

- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, vận hành thông suốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng, phù hợp với thực tiễn. Xây dựng và tổ chức thực hiện trong toàn bộ hệ thống chính trị mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về công tác cán bộ

- Hoàn thiện quy định lựa chọn, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của các cấp ủy, tổ chức đảng theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện quy định.

- Tiếp tục cụ thể hóa, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ.

- Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài vào làm việc trong hệ thống chính trị; thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; sửa đổi chính sách, pháp luật để liên thông cán bộ từ cấp xã tới cấp huyện, cấp tỉnh.

- Khuyến khích cán bộ từ chức khi có khuyết điểm; kịp thời thay thế cán bộ bị kỷ luật, cán bộ năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm; kiên trì thực hiện “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác cán bộ.

- Khắc phục hạn chế, yếu kém, hình thức trong đánh giá cán bộ. Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cấp phó, cán bộ dưới quyền trực tiếp tiêu cực, tham nhũng.

- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ở các cấp, nhất là cán bộ tham mưu cấp chiến lược có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng.

Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết. Do đó, cần đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được. Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín...

Sáu là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát

- Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra của Nhà nước.

- Thực hiện hiệu quả Chiến lược kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng; tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp; thực hiện kết luận kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng. Thường xuyên kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong công tác cán bộ và vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.

- Đổi mới phương pháp, quy trình, nâng cao kỹ năng kiểm tra, giám sát, bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ.

- Thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp theo hướng liêm chính, chuyên nghiệp hơn.

Bảy là, tiếp tục đổi mới việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên

- Hoàn thiện quy định và đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

- Mọi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Kịp thời khen thưởng tập thể, cá nhân đảng viên tiêu biểu, gương mẫu. Phát hiện, chấn chỉnh hành vi thiếu gương mẫu của cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên sai phạm.

Tám là, tiếp tục đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc

- Đổi mới phong cách, phương pháp công tác, lề lối làm việc bảo đảm khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể. Hoàn thiện quy định về ban hành văn bản của Đảng bảo đảm khoa học, thực tiễn, hệ thống, chặt chẽ. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; mở rộng hình thức họp trực tiếp kết hợp với trực tuyến; giảm hội họp không cần thiết.

Có thể khẳng định, những hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền của các cấp ủy Đảng ở các mức độ khác nhau nếu không được tập trung tháo gỡ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển nhiều mặt của đất nước, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên, Nhân dân đối với Đảng. Bởi vậy, việc nghiên cứu để đề xuất giải pháp khắc phục trong điều kiện hiện nay là vấn đề rất quan trọng và cấp bách, đòi hỏi phải phát huy nhiều hơn nữa trách nhiệm và trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân./.

------------------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn Kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb CTQG Sự thật, tr.91.

(2)https://dangcongsan.vn/thoi-su/noi-dung-chuyen-de-cua-tong-bi-thu-to-lam-ve-ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-682050.html

(3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.207.

(5) Nguyễn Phú Trọng (2023), Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, tr.15.

(6) Hồ Chí Minh, sđd, tập 5, tr.330

(8)https://baotintuc.vn/thoi-su/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-toan-quoc-quan-triet-trien-khai-tong-ket-viec-thuc-hien-nghi-quyet-so-18-20241201131342104.htm